
Linh mục có nhiệm vụ cộng tác với Giám mục trong việc thể hiện vai trò của người mục tử. Linh mục có những công việc trực tiếp liên quan đến người giáo dân trong công tác mục vụ: loan báo Lời Chúa, dâng hy tế cho Thiên Chúa. Trong việc cộng tác vào ba tác vụ chính của hàng Giám mục, linh mục cần có những khả năng, đức tính và phẩm chất đạo đức, như đời sống thánh thiện, độc thân….
Công đồng Vaticanô II đã ra hai sắc lệnh với tựa đề “Đào tạo linh mục” và “Chức vụ và đời sống linh mục”. Đây là hai văn kiện liên hệ trực tiếp tới thiên chức và đời sống cũng như sứ vụ của người linh mục. Bên cạnh đó, một số văn kiện khác, cách nào đó, cũng đề cập đến vấn đề này.
Tuy các văn kiện của công đồng Vaticanô II đề cập rất nhiều về chức vụ và vai trò của người linh mục. Nhưng trong cuộc sống hôm nay, không thể chỉ có những vai trò vừa nêu trên mà còn có những vai trò không kém phần thiết thực trong đời sống của người linh mục, đó là: “linh mục và người nghèo; linh mục, người lãnh đạo và phục vụ; linh mục người giảng dạy đức tin…”.
Linh mục và người nghèo
Khi nói đến người nghèo, tự nhiên ai cũng có cảm giác ngần ngại, vì người nghèo gắn liền với sự khổ cực, với thiếu thốn, với lối sống lam lũ, dốt nát. Nhưng người nghèo lại được Đức Giêsu quan tâm hàng đầu trong sứ vụ của mình. Giải phóng họ , giúp họ có niềm hy vọng và cậy trông vào Thiên Chúa, phải chăng đó là sứ mệnh của những người đang theo sát Chúa Kitô trong ơn gọi linh mục? Vậy, người nghèo có ý nghĩa gì với các linh mục ngày nay, những người theo sát Chúa Kitô?
Trước hết, thiết nghĩ, linh mục là người giống với người nghèo, đó là không có của cải (hiểu theo nghĩa những cái không do mình gầy dựng), và bình đẳng với phẩm giá người nghèo.
Linh mục là người không có của cải, vì linh mục là dòng dõi tư tế. Theo Cựu ước, dòng dõi Lêvi không chiếm hữu gì, chỉ sống nhờ những lễ phẩm người ta dâng cúng cho Thiên Chúa. Ngày nay, linh mục cũng sống nhờ vào những người hảo tâm giúp đỡ, trong số đó, có nhiều người tình nguyện giúp với ý hướng là giúp mở rộng nước Chúa hay tạo điều kiện tốt cho những người của Chúa. Linh mục sống đúng với tinh thần của người môn đệ là thực sự nghèo, hay nói đúng hơn là tự nguyện nghèo, như lời căn dặn của Chúa khi sai các môn đệ đi rao giảng: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” .
Linh mục là người bình đẳng về phẩm giá với người nghèo, vì linh mục và người nghèo đều là con cái Chúa và được mời gọi sống đúng ý Chúa. Đọc “dụ ngôn nén bạc” của Chúa Giêsu, ta càng thấy rõ sự bình đẳng này. Linh mục nhiều khi bị cám dỗ cho mình là công dân hạng nhất và coi người nghèo là công dân hạng nhì ….Nhưng Công đồng Viticanô II đã xác định sự bình đẳng của mọi thành phần dân Chúa về mặt phẩm giá và tự do.
Thế nhưng xét về mặt vất chất, xem ra linh mục trội hơn người nghèo, vì linh mục không được trả thù lao cho những công việc mình làm, nhưng lại nhận được sự hảo tâm giúp đỡ một cách rộng rãi từ những người có thiện chí, nên đời sống vật chất thường không phải chật vật như người nghèo. Người nghèo, họ thiếu cả những cái nhỏ nhất như miếng cơm manh áo. Họ thiếu ngay cả tình thương và sự đồng cảm, đi đâu cũng bị dò xét, đề phòng, nói chi đến chuyện có ai đó tự nguyện giúp đỡ hoặc giúp đỡ với niềm vui .
Không những hơn về khía cạnh vật chất, người linh mục còn hơn người nghèo về khía cạnh tri thức, vì linh mục được đào tạo rất chu đáo, đầy đủ, có nhiều điều kiện tiếp xúc với những nguồn tài liệu mới, được cập nhật thường xuyên về “đạo” cũng như về “đời”. Linh mục ít nhất cũng có tài ăn nói hơn người nghèo, đồng thời cũng có tầm hiểu biết hơn về các lĩnh vực của đời sống; đặc biệt, biết điều gì là quan trọng cho đời sống. Ngược lại, người nghèo, phần đông trong số họ thường là hạn chế về kiến thức, vì nghèo nên có ít điều kiện để học hành, tài năng ít có cơ hội để phát huy, và như thế, họ khó có được một tầm nhìn rộng lớn và toàn diện.
Thêm vào đó, linh mục còn là người có nhiều mối tương quan, vì linh mục thường được nhiều người thương mến, tôn trọng, trong khi người nghèo lại thường bị người khác hất hủi, lạnh nhạt. Linh mục được nhiều người quan tâm, biết đến, lui tới vì sẽ có lúc, họ cần đến linh mục giúp mình trong nhiều việc: dâng lễ, cầu nguyện, làm các bí tích trong việc ma chay, cưới hỏi…; còn người nghèo, vì nghèo nên ít có điều kiện để giao tiếp với nhiều người, nên không tạo được nhiều mối quan hệ khác với những mối tương trợ với người cùng cảnh ngộ.
Trước những người bình thường hoặc giàu có, người nghèo bị cô lập bởi con mắt kỳ thị, dửng dưng, khinh miệt.
Như vậy, đối với người linh mục, lời dạy của Chúa về việc dành ưu tiên cho người nghèo hệ tại ở đâu? Thiết nghĩ, các linh mục thường để ý hay nhạy cảm với những điều thuộc về mình hay điều khác biệt, nhưng ít quan tâm đến những tương đồng, bình đẳng về bản chất sâu xa của mình với người nghèo, nên đã có nhiều động thái bề ngoài có vẻ trái ngược với đức bác ái của người mục tử hoặc với bản chất của sứ vụ, nhưng lại được biện minh bằng những lý do rất bình thường và hợp lý.
Đôi khi những động thái ấy còn có vẻ ngoài là sự lạnh nhạt với người nghèo. Từ những điều kiện trổi trang, cộng với những vẻ bề ngoài rất khác biệt với người nghèo, một số linh mục trở nên dửng dưng, lạnh nhạt với người nghèo. Các linh mục không còn nhạy cảm với những nỗi khổ cực của người nghèo, vì nó quá xa lạ với đời sống của các ngài. Thái độ lạnh nhạt đó thể hiện bằng việc lẩn tránh, không tiếp xúc hoặc những thái cử, ngược với tinh thần Tin mừng. Quả vậy, Chúa Giêsu đã nói: “ai cho một trong những kẻ bé mọn này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Đón tiếp còn chưa muốn thì làm sao cho uống nước của cha được!
Lên lớp, phê phán người nghèo thay vì đồng cảm và khích lệ. Nếu có tiếp đón người nghèo, linh mục luôn có thái độ dè chừng xem họ có lừa mình không, thay vì cố gắng hiểu xem tại sao họ làm thế; tại sao họ phải cố nói cách này hay cách khác để xin một chút tiền. Hay linh mục cũng thường có thái độ phê phán, lên lớp, dạy đời một cách dồn dập, không cần biết họ có khả năng tiếp thu, hay có thiện chí tiếp nhận chưa, thay vì đồng cảm an vui và khích lệ họ. Thay vì nâng đỡ để khuyến khích, linh mục lại làm cho họ mất động lực để vươn lên trong cuộc sống.
Từ thái độ lạnh lùng hoặc đón tiếp một cách thiếu bác ái của linh mục, người nghèo cảm thấy linh mục tạo ra một hố ngăn cách, và dần dần, họ thật khó tự nhiên để tiếp xúc với linh muc. Họ gặp linh mục, cũng chẳng khác gì gặp những người bình thường bôn ba với cuộc sống, cũng bận rộn với những việc đời mà không có một chút tinh thần “cho không biếu không”. Và thế là, họ vẫn ở trong vòng luẩn quẩn, không có một động lực nào cho họ thay đổi cuộc sống..
Tóm lại: Trên đây là những cảm nhận bên ngoài vế một số linh mục ngày nay đang bị ảnh hưởng của lối sống xã hội hoặc những bận rộn với đời thường, mà quên đi cái vai trò căn tính thực sự của mình là lòng bác ái cùng mối quan tâm ưu tiên dành cho người nghèo khổ trong sứ vụ linh mục. Đó là điều Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng đã cảnh giác: "Vui mừng và hy vọng , ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cùng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu lắng lo của các môn đệ Chúa Kitô". Cầu mong ngày càng có nhiều linh mục thấm nhuần tinh thần này hơn để Giáo hội ngày càng làm rõ thêm bộ mặt tuyệt vời của Chúa Kitô.
Trong nghi thức phong chức linh mục, giám mục thay mặt Chúa và Hội thánh thẩm vấn ứng viên tiến chức về sự tự do trong quyết định và sẵn sàng chịu trách nhiệm về hành vi tự nguyện hiến thân để phục vụ Chúa và mọi người của ứng viên. Khi tự do đón nhận trách nhiện, ứng viên linh mục cũng nói lên sự tự nguyện phục vụ bằng chính khả năng Chúa trao ban cho mình với lòng nhiệt thành và trung tín. Trung tín trong việc trao ban các ơn huệ cho dân Chúa một cách nhưng không, phục vụ với lòng nhiệt thành và quy hướng tất cả về Chúa, kể cả những điều lẽ ra ứng viên phải được hưởng dùng. Nếu linh mục chỉ là người lãnh đạo theo kiểu trần gian thì linh mục đã bỏ quên và lạc xa ơn gọi của mình; nếu phục vụ mà chỉ để kiếm tiền thì có lẽ nhiều người đã làm tốt, làm giỏi hơn linh mục rất nhiều .
Linh mục, người lãnh đạo phục vụ
Có thể nói được rằng, trong đạo và ngoài đời, ai cũng biết chức năng của người lãnh đạo và vai trò của họ là gì trong đời sống chung. Linh mục cũng là người lãnh đạo nhưng, lãnh đạo như thế nào và phục vụ công ích ra sao? Đó là câu hỏi cần làm sáng tỏ.
Có lẽ người ngoài Kitô giáo khó mà hiểu được thế nào là người lãnh đạo thực thụ (linh mục), và vấn đề càng khó hiểu hơn nữa khi họ nghe nói rằng: “Người lãnh đạo là người phục vụ”. Nếu lãnh đạo là như thế thì làm lãnh đạo quả là việc không dễ dàng.
Trong thực tế, chúng ta có nhiều câu tục ngữ để nói về người lãnh đạo như: “Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, “Ăn trên ngồi trốc”, “Ăn to nói lớn”, “Một người làm quan cả họ được nhờ…” Những câu này chưa làm chúng ta thỏa mãn về ý tưởng lãnh đạo là phục vụ. Thế nhưng, ý tưởng đó lại nổi bật lên trong câu nói của Đức Giêsu, khi Ngài dạy các ông về tinh thần lãnh đạo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”. Lời dạy đó phải là linh đạo sống của tất cả những người lãnh đạo tinh thần, đặc biệt là các linh mục, những người theo sát và có vai trò cùng trách nhiệm phản ảnh gương mặt sống động của Chúa Kitô cho nhân loại.
Linh mục được Giám mục giao cho đảm trách một công việc. Công việc ấy có thể là một mảng hay một nhóm người như: Giới trẻ, Huynh đoàn, Thánh nhạc…hay là một giáo họ, giáo xứ nhất định. Sau khi được trao quyền, linh mục thường là người đứng đầu (lãnh đạo) một nhóm người nào đó. Như vậy, dù muốn dù không, linh mục luôn có vị trí chủ đạo, nghĩa là không chỉ hướng dẫn mà còn thánh hóa cộng đoàn bằng chức vụ tư tế nữa. Tuy nhận được sức mạnh thần thiêng từ nơi Thiên Chúa để làm các công việc thánh hóa cộng đoàn dân Chúa, nhưng linh mục vẫn là một con người sống giữa trần gian, cũng ít nhiều bị chi phối bởi cái hữu hạn đã nằm sâu trong con người ngay từ lúc khởi đầu, nên việc lãnh đạo của các ngài còn có những thiếu sót thì cũng là chuyện bình thường.
Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, một thế giới chung cho cả nhân loại được mở ra, nhưng thế giới ấy cũng kéo theo nó không biết bao nhiêu là hệ lụy về chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo; nhất là hố phân cách giàu, nghèo ngày càng trở nên sâu rộng. Chính vì thế, Giáo hội cũng được mời gọi dấn thân vào những nhu cầu mục vụ mới để thích ứng với xu hướng phát triển và thay đổi của xã hội hóa. Đó không phải là việc chạy theo thế tục, nhưng là đồng hành, chia sẻ trách nhiệm và đồng cảm với thế giới hiện thực, vì thế giới ấy sẽ được ánh sáng Chúa Kitô Phục sinh soi chiếu trong ngày quang lâm của Người. Linh mục là hữu thể bất toàn nhưng được mời gọi làm công việc của Nước Trời. Làm thợ thì đáng được trả công; nhưng nếu linh mục chỉ dừng lại ở chuyện ăn lương theo công việc thì linh mục cũng chỉ là một công chức chứ không phải là công dân trách nhiệm của thế giới mai hậu. Ta không phủ nhận giá trị tích cực của việc làm cho thế giới này xinh đẹp hơn, nhân bản hơn và đáng sống hơn; nhưng nếu linh mục chỉ dừng lại ở những giá trị trần thế mau qua theo quỹ đạo thời gian, thì vô tình linh mục đã đánh mất vai trò của mình là nên giống Thầy chí thánh và làm sai sứ mệnh của thiên chức linh mục được bắt nguồn từ Chúa Kitô. Theo cách đánh giá tự nhiên của con người, tiền tài, danh phận, chức quyền là những điều thiện giúp con người phấn đấu và làm việc không biết mỏi mệt. Đó cũng là một ân ban của Thiên Chúa nhằm khích lệ con người để không ai thấy mình làm việc uổng công. Cũng vậy, có thể nói, linh mục được Thiên Chúa trao cho những điều thiện đó nhưng không phải để hưởng thụ mà là để phục vụ, phục vụ hết mình như Chúa Kitô, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tiền bạc trong ý nghĩa này là một phương tiện tốt, một cách thức tốt để người linh mục sử dụng nhằm làm thăng tiến cộng đoàn, thi hành sứ mạng rao giảng, phục vụ và phát triển con người. Chúng ta không thể phủ nhận khía cạnh tích cực của tiền bạc là để trao đổi, phục vụ các nhu cầu của con người, là để chia sẻ trong tình bác ái và yêu thương. Thế nhưng, nếu người linh mục sống quá lệ thuộc vào tiền bạc thì tiền bạc sẽ trở thành mục đích hay lý tưởng mà linh mục nhắm tới. Đang khi đó, cái mà linh mục cần và phải đạt đến, đó là chinh phục các linh hồn cho Chúa, đem tất cả mọi sự tiến về đích như Chúa mong muốn. Khi chịu chức thánh, người linh mục đã chọn sống theo hình ảnh Đức Kitô tư tế thượng phẩm, sẵn sàng hy sinh bản thân để trở nên một Chúa Kitô khác, hầu cứu rỗi loài người. Như Chúa là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó vì yêu thương loài người, linh mục cũng phải sẵn sàng từ bỏ của cải, tiện nghi mình có để xây dựng Nước Thiên Chúa. Linh mục đừng nghĩ rằng mình không có lời khấn khó nghèo công khai như các tu sĩ, nên không buộc phải sống khó nghèo, và rồi cứ tiêu xài thả cửa. Trong phạm vi những nhu cầu cơ bản của đời sống con người, như ăn mặc, nghỉ ngơi, giải trí, phương tiện di chuyển… ngài nên tránh mọi hình thức sang trọng, xa hoa hay kén chọn này nọ. Nhờ sống tinh thần nghèo khó Phúc âm như thế, linh mục mới có sự tự do nội tâm để đứng về phía những người nghèo khổ, và liên đới với họ để thiết lập sự công bằng, tình yêu thương, bác ái trong xã hội. Linh mục phải có tư cách và phẩm chất đạo đức của một người lãnh đạo như: khả năng lãnh đạo, trình độ kiến thức, tinh thần trách nhiệm… và nói chung phải có đủ “tài đức”. Con người được Thiên Chúa ban cho những khả năng khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi để cộng tác và làm việc chung với nhau trong tình huynh đệ. Chúng ta thử hình dung một mẫu người có đầy đủ tất cả các kiến thức của nhân loại, có thể là tài giỏi xuất chúng, sẽ sống như thế nào trong thế giới chúng ta đang sống? Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng, Ngài không ban cho một ai trên trái đất này như thế để ai cũng thấy sự giới hạn của mình và hướng đến tình liên đới với những người khác.
Trong nghi thức phong chức linh mục, giám mục thay mặt Chúa và Hội thánh thẩm vấn ứng viên tiến chức về sự tự do trong quyết định và sẵn sàng chịu trách nhiệm về hành vi tự nguyện hiến thân để phục vụ Chúa và mọi người của ứng viên. Khi tự do đón nhận trách nhiện, ứng viên linh mục cũng nói lên sự tự nguyện phục vụ bằng chính khả năng Chúa trao ban cho mình với lòng nhiệt thành và trung tín. Trung tín trong việc trao ban các ơn huệ cho dân Chúa một cách nhưng không, phục vụ với lòng nhiệt thành và quy hướng tất cả về Chúa, kể cả những điều lẽ ra ứng viên phải được hưởng dùng. Nếu linh mục chỉ là người lãnh đạo theo kiểu trần gian thì linh mục đã bỏ quên và lạc xa ơn gọi của mình; nếu phục vụ mà chỉ để kiếm tiền thì có lẽ nhiều người đã làm tốt, làm giỏi hơn linh mục rất nhiều.
Linh mục phải là người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu, Đấng đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ mọi người. Linh mục đã nhận các ân ban nhưng không từ Thiên Chúa, nên cũng được mời gọi trao ban không điều kiện, nhất là các bí tích. Thánh Phêrô đã viết để khuyên các mục tử như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên”.
Lãnh đạo là người đứng đầu, là người điều khiển, là người nhạc trưởng để quy tụ mọi thành phần dân Chúa thành cộng đoàn hiệp nhất. Trong vai trò lãnh đạo, linh mục cũng quy tụ dân Chúa và hiến thánh họ qua các bí tích. Linh mục lãnh đạo bằng cả con tim với lòng nhiệt thành và quảng đại, cho đi mà không mong được đền đáp. Xét về khía cạnh nào đó lãnh đạo và phục vụ là hai chiều kích trái ngược nhau, bởi trong nhiều hoàn cảnh xã hội hôm nay nhiều người lãnh đạo thường hô khẩu hiệu hơn là thực hành, hứa hẹn nhiều hơn là cố gắng thực hiện lời hứa ấy. Trong một xã hội hưởng thụ vốn đề cao chủ nghĩa cá nhân, hoặc tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” hay “một người làm quan cả họ được nhờ”, linh mục như người phải lội ngược dòng để sống đúng với phong cách lãnh đạo của mình. Chắc hẳn, linh mục sẽ không thể làm được nếu không có ơn Chúa giúp, không có ý hướng cộng tác với ơn Chúa, không muốn nên giống Chúa trong tinh thần lãnh đạo là phục vụ. Linh mục hãy là mẫu gương bằng những việc làm hơn là lời nói suông; linh mục phải là người lãnh đạo của Chúa và của mọi người.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI nói: “Ngày nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Chứng nhân của niềm tin, chứng nhân của lòng bác ái vô vị lợi để nhờ dấu chỉ đó mà mọi người nhận biết linh mục là người lãnh đạo trong yêu thương, lãnh đạo trong phục vụ.
Linh mục, người giáo dục đức tin
Sắc lệnh về “chức vụ và đời sống linh mục”, số 6, gọi linh mục là người huấn luyện đức tin (Educatores in fide). Đây là một nhiệm vụ không dễ dàng, để chu toàn mọi người đều biết rằng, giáo dục không phải chỉ là truyền đạt một mớ kiến thức hay một số kỹ thuật. Đó không phải là điều duy nhất người ta chờ đợi nơi một người thầy giáo. Một thanh niên đi học nghề điện, nghề mộc, hay thợ máy chẳng hạn, có lẽ chỉ cần học một số điều chuyên môn nhất định để hành nghề. Trái lại, một học sinh khi tới trường, thì phải học nhiều điều khác bên cạnh kiến thức: học ăn, học nói, học cách xử thế, học lễ nghĩa, đạo đức, học làm người. Vì thế, người dạy chữ, dạy nghề thì không thiếu, nhưng những nhà giáo dục chân chính thường không có nhiều.
Giáo dục đức tin cũng thế, đó là một công việc gian nan và còn khó khăn hơn bội phần. Người linh mục phần đông, được trang bị kiến thức và “kỹ thuật” đầy đủ để thi hành chức năng giáo dục đức tin đối với giáo dân cách thành thạo. Có nhiều linh mục còn được học thêm về chuyên môn hoặc chịu khó đi tìm tòi học hỏi riêng. Đó là điều rất đáng mừng. Nhưng xin mạn phép nói rằng, biết hành nghề, và cả việc có tay nghề cao, có kỹ thuật tốt, có nhiều “recettes” (công thức, “bửu bối”) mới mẻ trong phạm vi mục vụ, cũng không đương nhiên là đã có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ giao dục đức tin. Chính vì thế, mà Công đồng Vaticano II đã lưu ý: “Những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ, cũng không có ich bao nhiêu, nếu chúng không hướng về việc giáo dục con người đạt tới sự trưởng thành Kitô giáo”.
Tất cả các công việc mà linh mục làm trong các phạm vi huấn giáo, phụng vụ, tổ chức, điều hành chỉ là phương tiện, dù là phương tiện cốt yếu, nhắm mục đích đào tạo những người Kitô hữu trưởng thành trong đức tin.
Thế nào là người Kitô hữu trưởng thành?
Công đồng Vaticano II không có ý đưa ra một định nghĩa theo chuyên đề mà chỉ mô tả bằng một đôi nét chấm phá như: “với tư cách là người giáo dục đức tin, các linh mục có nhiệm vụ đích thân hoặc nhờ người khác lo cho mỗi Kitô hữu được hướng dẫn trong Chúa Thánh Thần, để làm triển nở ơn gọi riêng của mình theo Phúc âm, để có một đức ái chân thành và linh hoạt, để được sự tự do mà Chúa Kitô đã dùng để giải thoát chúng ta”(x.Gl 4,3;5,1.13).
Như vậy, trong phạm vi nhân bản, một người trưởng thành là người đã phát triển đến mức đầy đủ các tiềm năng trí tuệ, ý chí và tình cảm của mình, để biết suy nghĩ và hành động chín chắn, biết sống tự lập, tự chủ, tự do và có trách nhiệm trước lương tâm và trước xã hội. Chúng ta càng dùng ý thức, dùng lý trí để hành động, thay vì để cho bản năng hoặc cảm tính chi phối mình một cách bộc phát, chúng ta càng trưởng thành.
Trong phạm vi đức tin, người trưởng thành thiêng liêng là người thấm nhuần tinh thần của Đức Kitô, biết sống và hành động theo tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần rèn luyện con người nội tâm theo hình tượng của Đức Kitô nơi người Kitô hữu. Mà ai có Thánh Thần là có tự do, không còn bị tội lỗi, dục vọng chi phối. Nói theo Thánh Phaolô, con người thần thiêng đã thắng thế con người khí huyết (hay xác thịt) nơi kẻ ấy, vì giữa xác thịt và Thần Khí luôn luôn có đối lập.
Người Kitô hữu là người sống dưới chế độ Thần Khí : “Hãy bước đi theo Thần Khí và anh em sẽ không làm thỏa đam mê xác thịt, đôi đàng cự lại nhau”.
Trong vụ chia rẽ ở giáo đoàn Côrintô (người theo phái Apollô, người về phe Phaolô, kẻ theo Kêphas), thánh Tông đồ đã phê phán rằng họ là những người xác thịt, là những đứa con nít trong Đức Kitô (nghĩa là theo tiêu chuẩn của Đức Kitô) còn phải uống sữa, chưa kham nổi đồ ăn đặc, tức là những điều cao siêu thuộc về Thần Khí.
Tín hữu Côrintô khi chia rẽ nhau, là còn phản ứng theo con người xác thịt tự nhiên, chưa vươn tới trình độ của Thần khí của Đức Kitô, chưa phê phán theo quan điểm Tin mừng. Nếu họ làm như thế và tưởng mình là khôn ngoan thì thật là sai lầm. Họ ăn ở không như kẻ trưởng thành. Họ còn ấu trĩ trong đức tin.
Nếu người Kitô hữu nào càng có thói quen vượt lên trên con người “xác thịt” để phán đoán con người và sự việc, cũng như biết chọn lựa và hành động theo các tiêu chuẩn của Phúc âm và của Giáo hội thì càng chứng tỏ sự trưởng thành trong đức tin.
Con người thiêng liêng, tức con người mới, con người sống bởi Thánh Thần đã lớn lên và phải lớn mãi không ngừng cho tới “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” như thánh Phaolô quả quyết và như Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo cũng nói .
Đó là ơn Chúa ban. Và đó cũng là mục tiêu mà công tác mục vụ của linh mục phải nhắm tới.
Một nền huấn luyện đức tin vụ hình thức, vụ luật pháp, nhằm cốt yếu vào phần rỗi cá nhân và phân chia đạo đời cách máy móc, chắc chắn là một nền huấn luyện rất thiếu sót.
Có lẽ vì biết nền huấn luyện đó khá phổ biến, nên Công đồng Vaticano II đã gợi ra mấy phương thế sau đây giúp người Kitô hữu đạt tới sự trưởng thành Kitô giáo.
Một vài phương thế giáo dục đức tin. “các linh mục phải giúp tín hữu có khả năng nhận ra trong các biến cố lớn nhỏ, điều gì họ phải làm, điều gì Chúa đòi hỏi nơi họ”.
Sự so sánh giữa việc giáo dục đức tin với nền giáo dục nhân bản sẽ giúp hiểu rõ đoạn văn này hơn.
Không nền giáo dục nào có thể cung cấp cho học sinh giải những pháp tiền chế cho hết mọi vấn đề sẽ gặp trong đời. Khi người học trò không biết tiêu hóa những điều mình học để “biến hóa”, nghĩa là không biết tự mình suy nghĩ và áp dụng linh hoạt những điều đã học vào những hoàn cảnh luôn mới mẻ, mà chỉ biết “nhả” ra y nguyên những gì đã học, hoặc chỉ biết chạy đi hỏi ý kiến ông thầy, thì đó là một học trò dở, hoặc là một thầy giáo dở .
Trong việc giáo dục đức tin, linh mục không những dạy cho giáo dân biết những điều phải tin và những việc phải làm, mà còn phải làm sao cho họ có thói quen nhìn mọi sự dưới ánh sáng Tin mừng, để rồi dần dần đạt tới khả năng tự mình biết phải xử sự như thế nào cho đẹp lòng Chúa.
Với tiêu chí này, xem ra phương pháp kiểm điểm đời sống là một phương pháp tốt.
Kiểm điểm đời sống là nhìn các biến cố và hoàn cảnh với cái nhìn đức tin; nghĩa là tìm cách nhìn các biến cố và hoàn cảnh sống theo cách thức của Chúa. Vì thế, thường các buổi kiểm điểm bắt đầu bằng một đoạn Lời Chúa mà cộng đoàn suy gẫm với nhau, rồi lấy Lời ấy rọi vào đời sống mình để đánh giá và gợi cho mình những hành động phù hợp.
Tất nhiên, khó áp dụng y nguyên cho hết mọi cộng đồng Kitô hữu được. Nhưng điều nên học hỏi nơi phương pháp này là: tập quy chiếu mọi sự và cuộc sống mình về với Chúa và với Tin mừng. Thiết nghĩ, những nhóm nhỏ như Nhóm chia sẻ Lời Chúa, Huynh đệ đoàn Dòng ba và một số đoàn thể tông đồ hoặc đạo đức, vốn có khá nhiều trong các giáo xứ, nên được huấn luyện về phương pháp này. Đây là một nhiệm vụ mà các linh mục coi xứ nên quan tâm đảm nhận. Bây giờ tình hình không còn khó khăn như trước thời “Đổi mới”. Có làm như, thế đời sống đạo của người công giáo Việt Nam mới ngày càng sâu sắc hơn, trưởng thành hơn, vượt qua được trình độ sơ đẳng là chỉ đọc kinh lần chuỗi với nhau. Nhờ thường xuyên làm như thế, ý thức của người Kitô hữu dần dần được thấm nhập tinh thần siêu nhiên, khiến họ biết phê phán, đánh giá và hành động theo Đức Kitô một cách gần như tự nhiên.
Trong cách giảng dạy, trong cách cử hành các bí tích, trong các cuộc tiếp xúc hoặc trong cách chính mình nhìn các sự việc và con người, người linh mục phải quan tâm rèn luyện tinh thần đức tin cho người tín hữu theo những tiêu chí như thế.
Người linh mục phải có đức tin vững mạnh và sáng suốt để bản thân mình và giáo dân của mình được củng cố.
“Linh mục còn phải dạy cho người Kitô hữu không chỉ sống cho mình, nhưng còn phải sống theo những đòi hỏi của luật bác ái. Mỗi người phải tùy theo ơn nhận được mà phục vụ lẫn nhau. Và như thế, mọi người phải chu toàn nhiệm vụ của mình trong cộng đồng nhân loại theo tinh thần Kitô giáo”.
Biết phục vụ tha nhân, biết sống cho kẻ khác, đó cũng là dấu hiệu của sự trưởng thành Kitô giáo, mà linh mục phải nhằm rèn luyện cho giáo dân .
Trong Hiến chế Gaudium et spes (số 30), Công đồng Vaticano II căn dặn: “xin đừng ai chủ trương một thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa mà không lưu tâm hoặc không màng chi tới diễn tiến thời cuộc. Bổn phận công bình và bác ái được chu toàn mỗi ngày một hơn là do mỗi người biết, tùy theo những khả năng của mình và nhu cầu của kẻ khác mà mưu ích chung”.
Người Kitô hữu trưởng thành sẽ biết dùng ơn Chúa ban để góp phần xây dựng cộng đoàn Giáo hội, bắt đầu từ giáo xứ mình. Rồi họ cũng phải lo lắng tới lợi ích của cộng đồng nhân loại trong đó họ sống, vì luật bác ái buộc họ làm như thế.
Một phương thế nữa giúp giáo dân trưởng thành trong đức tin là hướng dẫn và tạo điều kiện cho họ tham gia tích cực vào sứ mạng của Giáo hội.
“Công đồng Vaticano II có một cái nhìn mới mẻ về Giáo hội và về sứ mạng cứu độ của Giáo hội trong thế giới, nên đã mở ra một chân trời xán lạn và hoàn toàn mới mẻ cho giáo dân và cho việc dấn thân của họ vào trong cộng đồng Kitô giáo và trong xã hội”.
Đối với linh mục, đây cũng là dịp tốt để tự xét mình: gần 50 năm sau Công đồng, bản thân người linh mục đã biết vai trò và sứ mạng đó, nhất là đã nỗ lực sống vai trò và sứ mạng đó như thế nào?
Người giáo dân là thành phần toàn vẹn của dân Chúa, cũng được tham dự vào ba chức vụ: tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô, theo cách thức của họ . Vì thế, họ có quyền và có bổn phận tham gia vào sứ mạng của Giáo hội. Linh mục không được coi giáo dân chỉ là kẻ thừa hành dễ bảo.
Tất nhiên là đa số giáo dân còn rất thụ động và chưa có trình độ cao, nhưng nhiệm vụ của người chủ chăn là giáo dục họ và thường thường phải rất kiên nhẫn với họ.
Bên cạnh đó, có một thành phần không nhỏ là những người có học thức, người linh mục cũng phải biết khiêm tốn học hỏi từ cách thức ứng xử đến cách tổ chức công việc sao cho hài hòa nhã nhặn, để tạo cho họ có niềm xác tín hơn vào Chúa và tích cực dấn thân vào công việc chung.
Trong hiện tình đó, bổn phận của linh mục là gì? Thưa là “đem lại cho giáo dân một sự soi sáng và một sự trợ giúp tinh thần thích đáng”.
Để có được sự thích đáng như Công đồng dạy, người linh mục phải dạy nhân bản cho giáo dân, bởi việc giáo dục nhân bản cũng là việc góp phần xây dựng con người thiêng liêng của giáo dân vậy.
Tóm lại: Linh mục trong xã hội ngày nay, phải chấp nhận những việc làm đặc biệt, bất thường và xứng đáng với lòng tin mà giáo dân giao phó.
Cử hành Thánh lễ là công việc lớn nhất trong ngày của ngài. Đó là trách vụ cao cả nhất mà Chúa trao phó và cũng là phương thế để ngài nhận được hồng ân Chúa ban
Hồng ân Bánh và Rượu, là Mình và Máu Thánh Chúa;
Hồng ân cho cá nhân linh mục là con người hoàn hảo, hình ảnh Chúa, đại diện Thiên Chúa;
Hồng ân là gạch nối giữa dân Chúa và Đấng Cứu Rỗi cùng sự Vinh quang của Ngài: Bí tích Thánh thể kết hợp dân Ngài với Ngài.
Khi dâng Thánh lễ, linh mục là người mở cửa cho Chúa thăm viếng thế gian. Vì vậy, ai ghét linh mục là ghét Chúa vậy, ai ngăn cản Thánh lễ, qua việc phá hoại hành sự của linh mục là chống lại Chúa và dân Chúa!
Ngoài Thánh lễ, linh mục thường đem Mình Thánh đến các kẻ liệt từ nhà này qua nhà khác.
Phép giải tội, do linh mục cử hành, là ơn cứu rỗi và hoà giải Chúa ban. Ðây cũng là dịp, giáo dân tiếp nhận những lời khuyên nhủ từ linh mục, một cố vấn đã được huấn luyện kỹ càng và nhiều kinh nghiệm.
Trong tuần, linh mục thường đi thăm viếng giáo dân, kẻ liệt, người bất hạnh…
Linh mục phải tìm dịp để đi thăm, nếu không là cá nhân thì phải đến các hội đoàn.
Giáo dân gọi linh mục là Cha, linh mục có bổn phận cho xứng đáng với chức vụ làm cha trong gia đình cộng đoàn đã được giao phó cho mình.
Linh mục ngày nay không chỉ làm bổn phận trên bàn Thánh và trong toà giải tội. Sứ mệnh của linh mục là sứ giả của Chúa Kitô, đem Tin Mừng đến cho mọi người, là nhà ngoại giao của Chúa Giêsu, là tiếng nói của Thánh Linh với mọi người và cho mọi tầng lớp trong xã hội linh mục đang sống.
Một linh mục thành công là một linh mục biết hạnh phúc với cái hạnh phúc của mọi người và biết khổ đau với cái khổ đau của mọi người.
Linh mục là người thuộc về Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Nhận xét này không bao giờ lỗi thời và luôn rất thời sự. Người linh mục luôn là nhân tố năng động trong chính hiện sinh của mình và của toàn nhân loại, được thể hiện cách đặc trưng trong chính cộng đoàn mà linh mục hiện diện. Chẳng linh mục nào được phép lang thang “ngoài biên chế”, cũng chẳng một linh mục nào được phép lười biếng đến nỗi không làm gì cho cộng đoàn, ít là cho một nhóm người nào đó.
Cuộc đời linh mục, vì thế, luôn gắn chặt và vận động cách rất hữu cơ và nhịp nhàng với nhịp sống của nhân loại. Kể từ ngày được thụ phong, trong trật tự và phạm vi của sứ vụ mình, linh mục bắt đầu bước vào một quỹ đạo của những hoạt động đa dạng, được định hướng trước nhưng chẳng có thể thấy trước, cho đến ngày chùn chân mỏi gối và “được nghỉ yên trong Chúa”. Đành rằng, cường độ hoạt động khác nhau là tùy người và cao thấp là tùy thời hoặc có thể có những vấp váp vì lý do chủ quan hay khách quan, nhưng tất cả đều phải lùi lại đàng sau và ép sang hai bên lề cho lộ trình hoạt động của linh mục được khơi thông, được tiếp tục và thăng tiến.
Nhưng mỗi thời mỗi khác, dù bản chất và vai trò của người linh mục xưa nay không đổi, thì sự đón nhận linh mục của người đời, trong cả sự hiện diện và hoạt động của ngài lại có những đổi thay. Không đặt linh mục chỉ trong tương quan với giáo dân Công giáo, mà với xã hội cách chung, xin nêu lên vài cảm nhận bản thân về những thuận lợi và khó khăn của linh mục trong xã hội hôm nay.
Những thuận lợi
Câu trả lời ngắn gọn nhất là “con người vẫn cần linh mục và sẽ mãi mãi cần các linh mục”. Trả lời một cách chắc nịch như thế cũng không sợ quá đáng và một chiều. Có nhiều lý do và lý chứng minh họa cách sống động cho lập luận này. Ở đây, xin chỉ nêu ba khía cạnh.
Trước hết, linh mục được đón nhận và quý trọng vì các ngài như cầu nối giữa con người với Đấng Tuyệt Đối. Ngay trong bản chất làm người, không ai lại không muốn vươn cao trong đời sống tinh thần. Có khi, vì những lý do khác nhau, nhiều người đã từ chối hay chưa dám phát biểu hoặc thể hiện ra bên ngoài những khát vọng sâu lắng trong lòng, nhưng họ sẽ không bao giờ rũ bỏ được những điều thuộc về bản chất “Nhân linh ư vạn vật” trong nỗi khắc khoải hướng về tuyệt đối.
Linh mục cũng chỉ là người, không phải là Đấng Tuyệt Đối. Nhưng linh mục, nhờ thiên chức đã lãnh nhận, lại có nơi mình hình bóng và lời khẳng định hùng hồn về sự hiện diện của Đấng ấy. Hơn nữa, linh mục, do sứ vụ của mình, lại có khả năng và trách nhiệm hướng dẫn tha nhân về với Đấng Tuyệt Đối. Bề ngoài, linh mục chẳng luôn trổi vượt người khác. Kiến thức, linh mục chẳng có đủ để so sánh với các bậc chuyên gia. Tài năng, linh mục không phải là nghệ sĩ để thỏa mãn thị hiếu của những kẻ tò mò. Nhưng linh mục có nơi mình điều người khác cần, dù họ thuộc bất cứ tôn giáo nào hay thậm chí vô tín, vì ngài sở hữu lời khẳng định chắc chắn về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng vừa là khát vọng vừa có thể thỏa mãn nỗi khát vọng của mọi người. Người đời đón nhận và yêu quý các linh mục trước hết và trên hết là ở điểm này
Thứ đến, linh mục được đón nhận trong chính sự dấn thân phục vụ mà các ngài cống hiến vô vị lợi cho tha nhân. Trong các tổ chức xã hội, chẳng thấy ai dám sống và làm việc cho ra vóc dáng của một “đầy tớ nhân dân” cả. Vì tôi làm đầy tớ anh thì ai làm đầy tớ tôi?! Rất dễ hiểu khi đó chỉ là những cách nói đã trở thành những mô típ quen thuộc hay khẩu hiệu sáo rỗng, còn thực tế thì ngược lại, vì cấu trúc và vận hành của xã hội không thể có điều đó. Nó là lý tưởng không tưởng. Cần thông cảm khi thấy lý tưởng ấy chỉ là vỏ bọc, rất dễ vỡ nhưng có còn hơn không. Đó là xã hội trần thế. Và tất cả chỉ là thế. Mỗi nơi mỗi kiểu, rất khó để nói được chỗ này hơn chỗ kia.
Người linh mục dấn thân cho sứ mạng phục vụ tha nhân theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu, Đấng “đến để phục vụ chứ không để được người ta phục vụ” (Mt 20,28). Dù không tránh được những vấp váp đây đó do sứ mạng này bị cá tính hay tham vọng cá nhân che khuất, nhưng không ai phủ nhận được sự hy sinh và phục vụ của các linh mục trong những nơi, những cộng đoàn và trong những lãnh vực các ngài được sai đến. Do dám hy sinh cuộc đời cho tha nhân, mà cả khi có yếu kém hay lầm lỗi, các ngài vẫn là những bằng chứng đủ sức thuyết phục và sưởi ấm lòng người về sự hỷ xả cần thiết cho cuộc nhân sinh mà các ngài làm được trong khi những người khác chịu thua. Nơi linh mục, có sự phục vụ vô vị lợi đích thật.
Cuối cùng, linh mục được đón nhận được vị nể và yêu mến vì các ngài đáng tin cậy. Tính đáng tin cậy ở người linh mục không chỉ thuộc giới hạn của nhân cách, mà còn nằm trong căn tính và bản chất của thiên chức. Ngoài những gì thiêng thánh của bí tích Hòa Giải mà linh mục được ủy thác qua năng quyền để ban ơn tha thứ và giao hòa cho giáo dân, linh mục còn là chỗ dựa tinh thần cho người gặp đau khổ, là nhà hướng đạo cho ai gặp bế tắc, là trung gian hòa giải và khuyên can, là cầu nối giữa người giàu và người nghèo trong các hoạt động từ thiện.v.v. Tất cả những điều này chỉ có thể thực hiện cách hữu hiệu và đáng tin cậy khi có được những con người đáng tin cậy, mà đứng đầu phải là các linh mục. Các linh mục luôn được kể như đối tượng số một để mọi người “chọn mặt gởi vàng”. Tính đáng tin cậy của người linh mục làm cho linh mục trở nên người của mọi người.
Tóm lại, người linh mục luôn được đa số người đời đón nhận cách chân tình và rộng mở. Các ngài đã trở nên một thành phần không thể thiếu của xã hội loài người. Mừng thay là Chúa vẫn ban cho nhân loại những linh mục xứng đáng như thế.
Nhưng nói xuôi cũng phải nói ngược, liệu người linh mục có luôn gặp được mọi sự êm xuôi hay đang phải đối diện với nhiều thách đố?
Những khó khăn
Trong xã hội chúng ta, người linh mục đang phải đối diện với không ít những khó khăn. Ai sống lâu trong đời sống linh mục sẽ nhận diện được nhiều hơn những khó khăn. Ở đây, chỉ xin nêu ba khó khăn và thách đố xem ra trái ngược với ba lý do thuận lợi trong việc được đón nhận ở trên.
Khó khăn và thách đố đầu tiên chính là khát vọng về tuyệt đối nơi con người ngày nay đang bị điều khiển cho lệch hướng. Ai điều khiển, điều khiển bằng gì và đã làm lệch hướng đến đâu là những vấn đề không dám giải đáp trọn vẹn trong phần này mà cần tìm hiểu thêm ở thực tế cuộc sống. Ở đây, chỉ xin nêu lên những điều chung nhất mà thôi.
Ngày nay, con người dám phủ nhận cách trắng trợn sự hiện hữu của Thiên Chúa và khát vọng sâu xa hướng về Đấng Tuyệt Đối trong tâm hồn con người. Nhưng biến Thiên Chúa thành thừa thãi, không cần thiết nữa, cũng như chế ra những cách thỏa mãn giả tạo khát vọng nơi tâm hồn lại là điểm mạnh của những người được giao cho nhiệm vụ lãnh đạo xã hội. Cuộc giằng co giữa một bên là sứ mạng của linh mục trong việc lôi kéo con người đến với Thiên Chúa để con người được Thiên Chúa cho no thỏa tấm lòng, với bên kia là cố gắng đẩy con người ra xa Thiên Chúa bằng những phương thức thế tục, sẽ không có kết cục là thất bại của linh mục, nhưng sẽ là mối đe dọa cho ý chí của các ngài. Một khi con người bị lôi ra khỏi Thiên Chúa và tự thỏa mãn với khát vọng của mình bằng trí khôn nhân loại, liệu con người còn cần đến vai trò của linh mục như cầu nối giữa họ với Thiên Chúa nữa không? Thiên Chúa vô hình còn trở nên thừa thãi, phương chi linh mục là những người sờ sờ trong xã hội. Không ít người tìm cách làm cho người khác nói với các linh mục rằng “chúng tôi không còn cần các ông”, hoặc: “Các anh là đồ ăn hại”!
Khó khăn và thách đố thứ hai chính là sự cô lập hóa phạm vi phục vụ của linh mục. Khi nỗ lực đánh đuổi Thiên Chúa không thể thành công, người ta tìm cách đóng khung Thiên Chúa lại. Thiên Chúa hay niềm tin vào Người chỉ còn là chuyện cá nhân, không phải là bận tâm chung của xã hội. Đóng khung Thiên Chúa thì không thể làm được, họ bèn cô lập hóa những người tin vào Người và những ai phục vụ nhân danh Người. Chính trong bối cảnh này mà người ta đã vạch ra một biên giới rạch ròi giữa thế quyền với thần quyền, giữa tôn giáo với xã hội. Người phục vụ thuộc về các tôn giáo nói chung và các linh mục nói riêng, đều phải lệ thuộc những quy định ở mọi mức của xã hội. Dù là phục vụ nhu cầu tâm linh hay hoạt động bác ái từ thiện, họ đều phải có sự đồng ý của thế quyền. Đòi hỏi này không xấu, nhưng không cần thiết vì các ngài chẳng bao giờ làm sai điều gì. Nhưng vì muốn áp đặt quyền lực trên linh mục và “bó giò” linh mục được càng nhiều càng tốt mà người ta đã làm như thế. Điều này chẳng làm hại gì được các linh mục, nhưng lại làm cho các ngài khó khăn trong việc phát huy hết khả năng phục vụ, và do đó, làm hại cộng đồng xã hội.
Người ta còn tìm cách đánh đồng giữa hai sự phục vụ, một của các linh mục và một của các quan chức thế tục. Họ dám cho là như nhau. Nhưng sự khác biệt căn bản của hai việc phục vụ, có lẽ, họ chưa khám phá ra. Nó nằm ở chỗ: linh mục coi con người là mục đích cho đời phục vụ, trong khi đại diện những thế lực trần thế chỉ coi con người là phương tiện mà thôi.
Khó khăn thứ ba chính là sự thiếu hiểu biết hay quan niệm sai về thiên chức linh mục. Quan niệm sai vì nhiều lý do, có thể phân ra thành hai nhóm khách quan và chủ quan. Khách quan là vì chưa biết do không được dạy dỗ, hoặc biết sai do dạy dỗ sai; cũng có thể do chưa được gặp gỡ và tiếp xúc với các linh mục, mà nhiều người chẳng biết linh mục là ai và có để làm gì. Chủ quan vì đố kỵ, yếu niềm tin hoặc có ác cảm cá nhân, quyền lợi phe nhóm…
Thật vậy, khi nền giáo dục chẳng đá động gì đến thiên chức linh mục, các cơ quan truyền thông tìm cách nói sai và kết án linh mục, mọi cơ cấu xã hội chỉ nhìn nhận và đối xử với các linh mục như những công dân bình thường… thì một bộ phận rất lớn giới trẻ đã thiếu hiểu biết về linh mục và nghĩ sai về linh mục. Tính đáng tín nhiệm của linh mục đang hoặc bị khai trừ hoặc bị làm tổn thương.
Cuối cùng khó khăn lớn nhất là công tác mục vụ của các ngài đối với giáo dân.
Trong công việc mục vụ, sự đòi hỏi của giáo dân đối với linh mục quả là một điều đầy phiền toái. Thực sự, linh mục đang phục vụ cộng đoàn không phải riêng một thứ việc, nhưng là nhiều thứ việc. Bên cạnh đó, giáo dân luôn đòi hỏi linh mục phải đáp ứng một cách đầy đủ cho từng việc họ cần, cho từng giáo dân. Do vậy, nhiều lúc vì muốn được việc, một số giáo dân không thông cảm và thiếu tế nhị nên đôi lúc đã xảy ra những chuyện không hay giữa giáo dân và linh mục. Linh mục là người của công chúng, nhưng thật khó mà đáp ứng, hay sống vừa lòng với hết thảy mọi người được. Cùng một vấn đề, nhưng người này khen hay, người khác chê dở, chẳng khác gì cảnh “làm dâu trăm họ”. Có nhiều nơi, giáo dân thường phàn nàn cha xứ giảng dài, làm lễ lê thê, sống hướng ngoại nhiều hơn, hay nóng nảy, ít thăm hay gặp gỡ giáo dân, có người còn cho “hôm nay ông cha giảng ba dê” nghĩa là giảng dài, giảng dai, giảng dở…Những hoàn cảnh này chính là cơ hội thanh luyện và giúp linh mục thi hành thánh ý của Chúa, như thánh Phêrô nói: “những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân, mà con phải chịu thử lửa”.
Ngoài những khía cạnh khách quan, cũng cần nhận định đôi chút về vấn đề chủ quan. Thật sự ai cũng ngại nói đến những vấn đề mà mình không muốn nói, thế nhưng không phải vì thế mà được phép không nói. Xin nói những gì mắt thấy tai nghe, đồng thời cũng là dịp để người viết suy gẫm về con đường mà mình đang hướng tới. Có lẽ đây cũng là một thách đố lớn cho ơn gọi linh mục! Nói đến linh mục, tôi nghĩ ngay đến vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của các ngài, đó là: Công bố Tin mừng, cử hành các Bí tích và Á Bí tích, phục vụ cộng đoàn và gặp gỡ mọi người. Nhưng trong thực tế, có đôi lúc, các ngài cáng đáng quá nhiều việc đến nỗi lơ là đời sống thiêng liêng của chính mình, chứ chưa nói đến trách nhiệm cử hành phụng vụ và bí tích cho cộng đoàn. Cũng lắm lúc, các ngài quan tâm đến việc xây nhà thờ, nhà xứ, mua xe hơi, kinh doanh bất động sản…hơn là xây dựng niềm tin và lòng mến cho giáo dân! Nếu cứ mãi như thế thì sứ mạng làm chứng cho Đức Kitô có được chu toàn không? Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp cho mặn lại?.
Tóm lại, linh mục vẫn là chứng nhân của Đức Kitô. Những ý kiến đánh giá linh mục thế này hay thế kia chỉ là những ý kiến nhỏ, vì vẫn còn đó biết bao linh mục đang sống tốt trách nhiệm làm chứng nhân của Chúa, ngày đêm phục vụ và rao giảng Tin mừng trong nhiều khía cạnh và khả năng. Đức Giêsu, Thầy chí thánh của các linh mục cũng phải chịu thử thách trăm chiều, nhưng vẫn chiến thắng. Giáo hội đã có lúc tưởng chừng như vô dụng, tựa “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ Thần Khí, Hiền Thê của Đức Kitô vẫn hiên ngang tiến bước. Giáo hội phong phú và phát triển là nhờ sự cộng tác, hy sinh và nhiệt thành của các linh mục tốt lành. Giáo dân được bình an là nhờ các ngài như chỗ dựa và là người trung gian mang ơn phúc của Chúa đến cho họ.
Dựa vào những thuận lợi và khó khăn như vừa nêu trên người viết xin nêu lên một vài giải pháp suy tư về vai trò của người linh mục trong xã hộ hôm nay.
Giải đáp
Những trình bày trên cho thấy vai trò của người linh mục hôm nay đã và đang phải đối diện với những khó khăn. Thế nhưng, không phải vì những khó khăn đó mà Giáo hội đành chấp nhận để cho nhiều người giáo dân đã, đang, và sẽ liều mình bước vào đời sống đức tin mà chưa được chuẩn bị cách kỹ càng và đầy đủ. Với vai trò và trách nhiệm của một người linh mục, tu sĩ,… đây là lúc chúng ta phải bắt tay vào cuộc, không những chỉ bằng những lời rao giảng, những chương trình mục vụ thiết thực như đã nêu trên, mà còn phải bằng chính cuộc sống mỗi ngày trong đời sống chứng tá.
Chính vì thế người viết xin nêu lên một vài giải pháp như những xác tín về việc xây dựng một hàng ngũ linh mục đạo đức, thánh thiện, sẵn sàng trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước và loan báo Tin mừng trên cánh đồng truyền giáo bao la như hôm nay.
Giải đáp về điều hành giáo xứ và cộng đoàn…
Thiết nghĩ, các cha xứ nên chia sẻ trách nhiệm với hội đồng mục vụ giáo xứ trong những công việc có thể, không nên “bao cấp” quá nhiều công việc. Làm như vậy, cha xứ sẽ tạo nên mối dây hiệp thông giữa người giáo dân với nhau cũng như giữa họ với người linh mục. Như vậy, giáo dân cảm thấy giáo xứ…như là gia đình của mình và linh mục là người cha trong gia đình.
Giải đáp về tài sản của giáo xứ và cộng đoàn…
Theo Giáo luật hiện hành, cha xứ có quyền và trách nhiệm quản trị tài sản giáo xứ. Nhưng thiết nghĩ, cha xứ không nên “bao cấp” trong việc quản trị tài sản giáo xứ…, mà nên chia sẻ quyền và trách nhiệm này với giáo dân trong giáo xứ. Đây cũng là điều mà bộ giáo luật hiện hành mong muốn khi buộc các giáo xứ phải có một hội đồng kinh tế. Do đó, các cha xứ nên giao quyền và trách nhiệm trong việc quản trị mọi tài sản của giáo xứ cho vị thủ quỹ của Hội đồng mục vụ, còn cha xứ chỉ giám sát việc quản trị tài sản giáo xứ của vị thủ quỹ mà thôi. Như thế, cha xứ không bị chi phối bởi những lo âu về tài chính, mà chỉ chú tâm lo việc cai quản, giảng dạy và thánh hóa giáo dân qua những chương trình mục vụ thiết thực.
Giải đáp về kỷ luật trong giáo xứ và cộng đoàn…
Kỷ luật cần cho đời sống giáo xứ….nhưng không nên theo những gì Bộ luật cũ mà Bộ luật mới không quy định. Không được “dứt phép thông công” giáo dân trong giáo xứ, và cũng không nên ra hình phạt “cấm chịu các phép bí tích” cho giáo dân. Vì theo tinh thần Bộ luật mới, những điều này không nằm trong quyền hạn của cha xứ. Ngoài ra, các cha xứ cũng không nên tạo cho giáo xứ của mình những quy định không thật sự chính đáng. Điều đó sẽ gây thêm phiền hà và gánh nặng cho giáo dân.
Giải đáp trong việc giảng dạy đức tin
Trong khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy, các cha nên soạn bài giảng lễ ngày chúa nhật và các ngày lễ buộc cách chu đáo. Bài giảng không được nói lang thang mà nên chú tâm vào đoạn Lời Chúa ngày hôm đó. Còn trong các thánh lễ hàng tuần, các cha cũng nên giảng một chút để giáo dân sống Lời Chúa cả ngày hôm đó. Tuyệt đối không nên dùng Lời Chúa để phê phán, đe dọa, nói cạnh, nói khóe giáo dân. Nên tổ chức các dịp tĩnh tâm, các tuần đại phúc để giáo dân có cơ hội nhìn lại và nâng cao đời sống thiêng liêng của mình….
Giải đáp trong việc thánh hóa bản thân và giáo dân
Các linh mục không nên dâng lễ một cách chiếu lệ, qua loa hoặc cho xong việc, mà nên dâng thánh lễ một cách tâm tình và sốt sắng để cho giáo dân, nhất là những người giáo dân trẻ thấy được tính thánh thiêng của thánh lễ, từ đó, họ gắn bó hơn với Chúa Giêsu Thánh thể…
Các cha cũng nên thường xuyên ngồi tòa giải tội, không nên qúa câu nệ vào giờ giấc giải tội mà mình đã đặt ra để la mắng, quát tháo hối nhân, nên có thái độ khiêm tốn, nhẹ nhàng để khuyên hối nhân lần sau đến tòa giải tội vào những giờ đã ấn định. Trong tòa giải tội, không nên dọa nạt giáo dân khiến họ cảm thấy bất an khi ra khỏi tòa giải tội, nhưng hãy lấy tấm lòng mục tử nhân lành mà khuyên bảo hối nhân hướng dẫn đời sống thiêng liêng của họ, đừng giải tội một cách qua loa.
Giải đáp về đời sống thiêng liêng
Các cha nên giữ các giờ kinh phụng vụ đầy đủ, thiết tha với việc viếng Mình Thánh Chúa, cầu nguyện và nguyện gẫm Lời Chúa hằng ngày…
Giải đáp về đời sống nhân bản
Để trung thành với đời sống độc thân khiết tịnh, các cha xứ nên tiếp xúc có chừng mực với nữ giới và cố gắng làm chủ cảm xúc tính dục của mình; nên xa tránh những tranh ảnh khỏa thân và các tài liệu có tính chất khiêu dâm. Mặt khác, để giữ đời sống độc thân khiết tịnh một cách hữu hiệu hơn, thiết nghĩ các cha xứ nên tránh những lối sống dễ dãi, thoải mái và hưởng thụ. Đây là lối sống phản chứng tinh thần khó nghèo của Tin mừng.
- Tiếp đến, linh mục nên là những người đi đầu trong việc sống tinh thần khó nghèo Tin mừng. Mặc dù, các cha cần có tiền để lo lắng cho cuộc sống cá nhân của mình, nhưng xin các cha đừng quá nặng lòng dính bén với tiền bạc, đừng chủ tâm tìm kiếm tiền bạc, tích lũy của cải vật chất và tiện nghi cuộc sống. Vì chính tiền bạc, của cải sẽ giết chết lý tưởng dâng hiến trong đời sống ơn gọi linh mục của các cha.
- Các cha nên có tinh thần sẵn sàng vâng phục người lãnh đạo của mình trong tinh thần đối thoại, nhất là đối với những người lãnh đạo mà mình không thích hay thua kém hơn mình về tuổi tác, trình độ học vấn,…vì khi các cha vâng phục các vị lãnh đạo thì đã nêu gương sáng về đức vâng lời cho giáo dân. Từ đó, mối dây hiệp thông trong Giáo hội được phát triển và liên kết chặt chẽ hơn mọi thành phần dân Chúa.
Kết luận
Những gì được trình bày trên đây khẳng định, vai trò của người linh mục trong xã hội hôm nay là rất cần thiết trong đời sống Giáo hội, bởi linh mục là người coi sóc đàn chiên. Khi lãnh bí tích truyền chức, các linh mục được thánh hiến để tham dự vào ba sứ vụ của Chúa Giêsu Kitô, đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế; đồng thời, được lãnh nhận một phần nhiệm vụ của giám mục, nên các linh mục có vai trò giáo huấn, thánh hóa và cai quản. Tuy nhiên, vai trò của người linh mục hôm nay mang bản chất thánh thiêng nhưng lại được thể hiện qua con người phàm trần nên người linh mục không thể nào tránh khỏi những yếu hèn trong cuộc sống chứng tá của mình. Thánh chức linh mục không hề là một “chiếc đũa thần” hay một phép mầu để một sớm một chiều biến vị linh mục thành một thiên sứ toả ánh hào quang giữa cõi người ta. Bao lâu còn sống trong thế gian, linh mục trước sau vẫn là một con người, với đầy đủ những bản chất “người” như bao nhiêu người khác. Thân phận con người linh mục là thế đấy. Được bao bọc bởi muôn điều thánh thiêng nhưng chính mình, bẩm sinh, lại chẳng phải là thánh. Được trao phó để quản lý những kho tàng quý báu, nhưng bản thân mình lại chỉ như chiếc bình sành mong manh dễ vỡ.
Biết vậy, Bài viết này chỉ mong ước được góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu vai trò của người linh mục, nhằm cho mọi người hiểu hơn về vai trò của các ngài, cũng như những khó khăn, thách đố mà các ngài đang phải đối diện trong cuộc sống hôm nay . Vì lẽ đó, người viết xin có một vài suy nghĩ, để làm cho sự nhận thức và hiểu biết về vai trò của người linh mục cách thiết thực hơn:
Trong vai trò là người linh mục, chúng ta cố gắng sống những chiều kích hiệp thông với giáo dân, cách riêng với người nghèo nơi mình phục vụ với tất cả ý thức và trách nhiệm.
Trong tư cách là nhà giáo dục đức tin, những người đồng hành thiêng liêng với các bổn đạo, chúng ta cần hỗ trợ hướng dẫn đời sống gia đình bằng những chương trình và kế hoạch mục vụ thiết thực, hữu hiệu và lâu dài, như quan tâm đến mọi người trong đạo cũng như ngoài đạo.
Nhưng vì giới hạn khả năng, về thời gian và tài liệu, bài viết này chưa thể nêu hết và giải quyết rốt ráo được về ý nghĩa thần học và giá trị thiêng liêng mà vai trò của người linh mục đem lại cho xã hội hôm nay. Hy vọng sẽ có cơ hội và có nhiều người cùng thao thức về đề tài này sẽ đào sâu và trình bày kỹ càng hơn, hầu đưa ra những giải pháp cụ thể và hoàn hảo hơn nhằm củng cố cho những xác tín đức tin về Thiên Chức Linh Mục . Đó cũng là ước nguyện và thao thức của bản thân khi viết về đề tài này, chúc cho các linh mục, đặc biệt các linh mục trẻ cũng như những ai đang làm công tác mục vụ thành công trong cuộc sống hiện tại và hạnh phúc trong cuộc sống tương lai./.
Phêrô Trần Đình Thuần
No comments:
Post a Comment